Nâng dần tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản xuất ??iện
Cơ cấu nguồn năng lượng sử dụng ở mỗi quốc gia để sản xuất ??iện phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và tiềm năng các nguồn năng lượng sẵn có, cũng như khả năng tiếp cận với các nguồn năng lượng ở nước ngoài của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn nhất định.
Những thập kỷ gần đây, hiện tượng trái đất nóng lên gây nhiều hệ lụy cho sản xuất và đời sống con người. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu đã trở thành nhiệm vụ cấp bách toàn cầu và được ghi nhận tại Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu (tháng 12/2015 với hơn 180 quốc gia ký kết Hiệp định). Theo đó, việc xác định cơ cấu sử dụng các nguồn năng lượng để sản xuất ??iện ở mỗi quốc gia, theo hướng hạn chế sử dụng năng lượng hóa thạch, sử dụng nhiều hơn và nâng dần tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) trong sản xuất ??iện đã được đặt ra. Bởi, năng lượng hóa thạch sử dụng hiện nay đã phát ra tới 2/3 lượng khí thải nhà kính (CO2); và lượng phát thải CO2 từ năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí) lại gấp nhiều lần so với từ NLTT (thủy ??iện, gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh khối...).
Cơ cấu nguồn năng lượng sử dụng ở mỗi quốc gia để sản xuất ??iện phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và tiềm năng các nguồn năng lượng sẵn có, cũng như khả năng tiếp cận với các nguồn năng lượng ở nước ngoài của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn nhất định.
Những thập kỷ gần đây, hiện tượng trái đất nóng lên gây nhiều hệ lụy cho sản xuất và đời sống con người. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu đã trở thành nhiệm vụ cấp bách toàn cầu và được ghi nhận tại Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu (tháng 12/2015 với hơn 180 quốc gia ký kết Hiệp định). Theo đó, việc xác định cơ cấu sử dụng các nguồn năng lượng để sản xuất ??iện ở mỗi quốc gia, theo hướng hạn chế sử dụng năng lượng hóa thạch, sử dụng nhiều hơn và nâng dần tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) trong sản xuất ??iện đã được đặt ra. Bởi, năng lượng hóa thạch sử dụng hiện nay đã phát ra tới 2/3 lượng khí thải nhà kính (CO2); và lượng phát thải CO2 từ năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí) lại gấp nhiều lần so với từ NLTT (thủy ??iện, gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh khối...).
Bảng 1. Cơ cấu sử dụng các nguồn năng lượng để sản xuất ??iện của thế giới và một số nước năm 2017
Nguồn: Theo BP Statistical Review of World Energy June 2018
Liên bang Đức đứng đầu thế giới về sử dụng nguồn NLTT để sản xuất ??iện với tỷ trọng 30% (không kể thủy ??iện). Xu hướng thế giới và hầu hết các quốc gia đã sử dụng nhiều hơn nguồn NLTT để sản xuất ??iện. Theo số liệu thống kê, năm 2005, trên thế giới NLTT mới đóng góp khoảng 12,6% tổng nguồn năng lượng để phát triển ??iện, đến năm 2017, tỷ trọng này đã tăng lên 24,3% (nếu không tính thủy ??iện lớn và vừa, thì tỷ trọng này là 8,4%).
Ở Việt Nam, việc sử dụng NLTT đặc biệt là thủy ??iện đã sớm được đầu tư với các nhà máy thủy ??iện lớn, như: Thủy ??iện Hòa Bình (1.920 MW), Thủy ??iện Sơn La (2.400 MW), Thủy ??iện Lai Châu (1.200 MW). Tuy nhiên, việc sử dụng năng lượng tái tạo ở Việt Nam mới đang chỉ dừng lại ở việc sử dụng các nguồn thủy lợi mà chưa chú ý tới các nguồn NLTT khác; và phải đến Quy hoạch Điện VII điều chỉnh, mục tiêu phát triển ??iện NLTT mới được đề cao rõ hơn, với nhiều nguồn năng lượng khác nhau.
Bảng 2. Tỷ trọng NLTT trong tổng công suất ??iện
Cũng trong Quy hoạch ??iện VII điều chỉnh, giai đoạn 2016-2030, năng lượng gió và mặt trời cho sản xuất ??iện được đặc biệt khai thác, với tổng công suất ??iện gió được đưa vào vận hành từ 800 MW (năm 2020), 2.000 MW (năm 2025) và 6.000 MW (năm 2030); cũng các năm trên, công suất các nhà máy ??iện mặt trời sẽ lần lượt là: 850 MW, 4000 MW, và 12.000 MW.
Tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam
Thủy ??iện: Tiềm năng thủy ??iện của Việt Nam rất lớn, tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Năm 2017, tỷ trọng sản lượng ??iện từ thủy ??iện chiếm tới 36,9% trong tổng sản lượng ??iện (tỷ trọng này của toàn thế giới là 15,9%). Theo nhiều nghiên cứu chính thức, các nguồn năng lượng để có thể xây dựng các nhà máy thủy ??iện lớn và vừa cơ bản đã hết. Nhưng tiềm năng thủy ??iện nhỏ (dưới 30 MW) của nước ta còn khá nhiều. Theo điều tra, khảo sát, nước ta có khoảng 1000 địa điểm được xác định có tiềm năng xây dựng thủy ??iện nhỏ từ 100 W đến dưới 30 MW, với tổng công suất trên 7000 MW. Việc xây dựng các nhà máy ??iện nhỏ không đòi hỏi nhiều vốn, quan trọng hơn không mất nhiều diện tích đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp,... vì không phải xây đập, hồ chứa nước lớn.
Điện gió: Việt Nam có bờ biển dài, có vùng núi cao, nên tiềm năng gió rất lớn. Theo Ngân hàng thế giới (WB), tiềm năng gió Việt Nam là nhiều nhất trong khu vực. Với hơn 39% diện tích tự nhiên được ước tính có tốc độ gió trung bình trên 6 m/giây ở độ cao 65 m, có tổng công suất lên tới 512 GW (trong đó có tới 8% diện tích tự nhiên có tiềm năng gió trên 7 m/giây ở độ cao 65 m), trong khi với sự phát triển công nghệ ??iện gió, với những nơi có tốc độ gió trung bình trên 5 m/giây ở độ cao 65 m, đã có thể đặt tua bin ??iện gió. Đặc biệt, các dự án ??iện gió không chỉ đặt trên đất liền mà cả các vùng nước ven biển với độ sâu không lớn. Theo điều tra khảo sát khu vực biển có độ sâu không lớn, khu vực biển có độ sâu từ 0-30 m từ Bình Thuận đến Cà Mau có diện tích khoảng 4.400 km2, có nhiều khả năng đặt các nhà máy ??iện gió với đầu tư không lớn hơn nhiều, và không phải giải phóng mặt bằng, không phải bồi thường nhiều diện tích để đặt các nhà máy ??iện gió, cũng như tiền thuê vùng bờ biển này không quá cao.
Điện mặt trời: Việt Nam có tổng giờ nắng cao trên 2500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm tương đối lớn, lên tới trên 230-250 kcl/cm2, tuy có sự khác biệt giữa các vùng, như ở Nam Trung bộ, Tây Nguyên gấp gần 1,4 lần Đông Bắc bộ và Đồng bằng sông Hồng về lượng bức xạ. Theo Chương trình Trợ giúp năng lượng MOIT/GIZ đánh giá sơ bộ, tiềm năng của các dự án ??iện mặt trời trên mặt đất nối lưới tại Việt Nam khoảng 20 GW, trên nóc mái nhà (roof top) từ 2-5 GW. Với tiềm năng năng lượng mặt trời lớn như vậy, nhưng đến năm 2014, Việt Nam mới có 1 MW công suất ??iện từ lắp đặt các tấm pin mặt trời (theo Trung tâm Điều độ Hệ thống ??iện Quốc gia, 2015).
Điện sinh khối: Là một nước nông nghiệp, dân số đông, Việt Nam có nhiều tiềm năng về năng lượng sinh khối từ gỗ năng lượng, phế phẩm, phế thải từ trồng trọt, chăn nuôi, từ các nhà máy công nghiệp chế biến các sản phẩm từ chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, hải sản, rác thải ở các đô thị... Theo tính toán, khả năng khai thác bền vững từ các nguồn sinh khối nông, lâm nghiệp đạt khoảng 150 triệu tấn/ năm.
Điện nhiệt: Tuy chưa được điều tra và tính toán đầy đủ, nhưng bước đầu về tiềm năng địa nhiệt lên tới nhiều trăm MW.
Triển vọng thực hiện các mục tiêu sử dụng năng lượng tái tạo năm 2030
Từ sau Quy hoạch VII điều chỉnh, Chính phủ và các bộ, ngành đã có những quyết định, chính sách và biện pháp để khuyến khích và hỗ trợ phát triển nguồn NLTT để sản xuất ??iện, như: Giải quyết vấn đề vướng mắc lớn nhất giữa các dự án ??iện NLTT và EVN là giá ??iện; Giảm và miễn thuế thu nhập cho các doanh nghiệp sản xuất ??iện; Giảm và miễn thuế nhập khẩu tài sản cố định của các dự án sản xuất NLTT; Gi???m tiền thuê đất, thuê mặt nước cho các dự án ??iện gió, ??iện mặt trời; Ưu tiên cung cấp tín dụng; Các quy định với bên mua có trách nhiệm mua toàn bộ lượng ??iện từ các dự án ??iện đã nối lưới; đẩy mạnh quy hoạch. Đó là những điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư các dự án ??iện gió, ??iện mặt trời từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Nếu năm 2014, mới có 46 MW ??iện gió và 1 MW ??iện mặt trời hoạt động thì đến cuối năm 2018, đã đưa vào vận hành 285 nhà máy thủy ??iện nhỏ với tổng công suất 3322 MW; 8 nhà máy ??iện gió với 43 MW; 10 nhà máy ??iện sinh khối với tổng công suất 212 MW; riêng với ??iện mặt trời có khoảng 10.000 MW công suất đã đăng ký, trong đó có 8.100 MW đã được bổ sung vào quy hoạch và có khoảng 100 dự án đã ký hợp đồng mua bán ??iện giữa chủ đầu tư dự án ??iện và EVN. Những tháng đầu năm 2019, làn sóng đầu tư vào các dự án ??iện từ NLTT vẫn tăng, đặc biệt dự án ??iện gió Kênh Gà có quy mô 3.400 MW của công ty Enterprise đã đệ trình Bộ Công Thương vào tháng 3/2019. Như vậy, mục tiêu đến năm 2030 sử dụng NLTT để sản xuất ??iện có nhiều khả năng thực hiện được./.
Tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam
Thủy ??iện: Tiềm năng thủy ??iện của Việt Nam rất lớn, tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Năm 2017, tỷ trọng sản lượng ??iện từ thủy ??iện chiếm tới 36,9% trong tổng sản lượng ??iện (tỷ trọng này của toàn thế giới là 15,9%). Theo nhiều nghiên cứu chính thức, các nguồn năng lượng để có thể xây dựng các nhà máy thủy ??iện lớn và vừa cơ bản đã hết. Nhưng tiềm năng thủy ??iện nhỏ (dưới 30 MW) của nước ta còn khá nhiều. Theo điều tra, khảo sát, nước ta có khoảng 1000 địa điểm được xác định có tiềm năng xây dựng thủy ??iện nhỏ từ 100 W đến dưới 30 MW, với tổng công suất trên 7000 MW. Việc xây dựng các nhà máy ??iện nhỏ không đòi hỏi nhiều vốn, quan trọng hơn không mất nhiều diện tích đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp,... vì không phải xây đập, hồ chứa nước lớn.
Điện gió: Việt Nam có bờ biển dài, có vùng núi cao, nên tiềm năng gió rất lớn. Theo Ngân hàng thế giới (WB), tiềm năng gió Việt Nam là nhiều nhất trong khu vực. Với hơn 39% diện tích tự nhiên được ước tính có tốc độ gió trung bình trên 6 m/giây ở độ cao 65 m, có tổng công suất lên tới 512 GW (trong đó có tới 8% diện tích tự nhiên có tiềm năng gió trên 7 m/giây ở độ cao 65 m), trong khi với sự phát triển công nghệ ??iện gió, với những nơi có tốc độ gió trung bình trên 5 m/giây ở độ cao 65 m, đã có thể đặt tua bin ??iện gió. Đặc biệt, các dự án ??iện gió không chỉ đặt trên đất liền mà cả các vùng nước ven biển với độ sâu không lớn. Theo điều tra khảo sát khu vực biển có độ sâu không lớn, khu vực biển có độ sâu từ 0-30 m từ Bình Thuận đến Cà Mau có diện tích khoảng 4.400 km2, có nhiều khả năng đặt các nhà máy ??iện gió với đầu tư không lớn hơn nhiều, và không phải giải phóng mặt bằng, không phải bồi thường nhiều diện tích để đặt các nhà máy ??iện gió, cũng như tiền thuê vùng bờ biển này không quá cao.
Điện mặt trời: Việt Nam có tổng giờ nắng cao trên 2500 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm tương đối lớn, lên tới trên 230-250 kcl/cm2, tuy có sự khác biệt giữa các vùng, như ở Nam Trung bộ, Tây Nguyên gấp gần 1,4 lần Đông Bắc bộ và Đồng bằng sông Hồng về lượng bức xạ. Theo Chương trình Trợ giúp năng lượng MOIT/GIZ đánh giá sơ bộ, tiềm năng của các dự án ??iện mặt trời trên mặt đất nối lưới tại Việt Nam khoảng 20 GW, trên nóc mái nhà (roof top) từ 2-5 GW. Với tiềm năng năng lượng mặt trời lớn như vậy, nhưng đến năm 2014, Việt Nam mới có 1 MW công suất ??iện từ lắp đặt các tấm pin mặt trời (theo Trung tâm Điều độ Hệ thống ??iện Quốc gia, 2015).
Điện sinh khối: Là một nước nông nghiệp, dân số đông, Việt Nam có nhiều tiềm năng về năng lượng sinh khối từ gỗ năng lượng, phế phẩm, phế thải từ trồng trọt, chăn nuôi, từ các nhà máy công nghiệp chế biến các sản phẩm từ chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, hải sản, rác thải ở các đô thị... Theo tính toán, khả năng khai thác bền vững từ các nguồn sinh khối nông, lâm nghiệp đạt khoảng 150 triệu tấn/ năm.
Điện nhiệt: Tuy chưa được điều tra và tính toán đầy đủ, nhưng bước đầu về tiềm năng địa nhiệt lên tới nhiều trăm MW.
Triển vọng thực hiện các mục tiêu sử dụng năng lượng tái tạo năm 2030
Từ sau Quy hoạch VII điều chỉnh, Chính phủ và các bộ, ngành đã có những quyết định, chính sách và biện pháp để khuyến khích và hỗ trợ phát triển nguồn NLTT để sản xuất ??iện, như: Giải quyết vấn đề vướng mắc lớn nhất giữa các dự án ??iện NLTT và EVN là giá ??iện; Giảm và miễn thuế thu nhập cho các doanh nghiệp sản xuất ??iện; Giảm và miễn thuế nhập khẩu tài sản cố định của các dự án sản xuất NLTT; Gi???m tiền thuê đất, thuê mặt nước cho các dự án ??iện gió, ??iện mặt trời; Ưu tiên cung cấp tín dụng; Các quy định với bên mua có trách nhiệm mua toàn bộ lượng ??iện từ các dự án ??iện đã nối lưới; đẩy mạnh quy hoạch. Đó là những điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư các dự án ??iện gió, ??iện mặt trời từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Nếu năm 2014, mới có 46 MW ??iện gió và 1 MW ??iện mặt trời hoạt động thì đến cuối năm 2018, đã đưa vào vận hành 285 nhà máy thủy ??iện nhỏ với tổng công suất 3322 MW; 8 nhà máy ??iện gió với 43 MW; 10 nhà máy ??iện sinh khối với tổng công suất 212 MW; riêng với ??iện mặt trời có khoảng 10.000 MW công suất đã đăng ký, trong đó có 8.100 MW đã được bổ sung vào quy hoạch và có khoảng 100 dự án đã ký hợp đồng mua bán ??iện giữa chủ đầu tư dự án ??iện và EVN. Những tháng đầu năm 2019, làn sóng đầu tư vào các dự án ??iện từ NLTT vẫn tăng, đặc biệt dự án ??iện gió Kênh Gà có quy mô 3.400 MW của công ty Enterprise đã đệ trình Bộ Công Thương vào tháng 3/2019. Như vậy, mục tiêu đến năm 2030 sử dụng NLTT để sản xuất ??iện có nhiều khả năng thực hiện được./.
TS. Nguyễn Quán
Trang web giải trí MG Electronics